Những biến đổi nhiều nhất trên EEG xảy ra ở những neuron gần ngay ổ thương tổn.
Nhiều khi EEG có những ổ sóng hình kim ở khá xa nơi thương tổn (đặc biệt ở vùng trán và vùng thái dương sau) và thậm chí ở vùng tương ứng bên đối diện cũng ghi được các sóng chậm do các xung động bệnh lý truyền đi theo đường vỏ não – đồi thị - vỏ não.
- Biến đổi khu trú thành ổ cũng hay gặp trong bệnh động kinh:
Các ổ nhọn hoặc các ổ sóng chậm có vị trí thay đổi (nhất là ở trẻ em thì không phải là dấu hiệu thương tổn khu trí ở vỏ não).
+ Các phóng điện khu trú thành ổ nếu thường xuyên thấy qua nhiều lần ghi điện não, có thể định hướng cho một thương tổn khu trú ở não.
+ Những biến đổi khu trú thường xuất hiện trên nền EEG đã có biến đổi (rối loạn nhịp cơ bản dưới dạng các sóng chậm, sóng nhọn lẻ loi hay thành chuỗi, các nhọn đa pha, các phức bộ nhọn – chậm, các phức bộ nhọn – sóng.
- EEG ở vị trí ổ động kinh:
+ Là vùng biến đổi bệnh lý thường xuyên qua các lần ghi (vùng xuất hiện các sóng chậm, các sóng nhọn, nhịp cơ bản bị rối loạn …) sự biến đổi phụ thuộc vào thời điểm ghi EEG (trước cơn, vùng có ổ động kinh thường trội lên các pic, nhọn và sẽ tăng lên rất nhiều khi cơn động kinh xuất hiện; ngay sau cơn biên độ sóng hạ thấp và sau trong động kinh tăng sóng chậm vượng lên). Khác với u não, trong động kinh tăng sóng chậm và sóng nhọn biên độ cao rất có ý nghĩa trong chẩn đoán ổ động kinh.
+ Khi ổ động kinh nằm ở vỏ não; thường ghi được hoạt kịch phát pic, nhọn, delta và thoi sóng 10Hz.
+ Khi ổ động kinh nằm dưới vỏ thường ghi được các phức bộ pic – sóng chậm với tần số 3 Hz đối xứng hai bán cầu, chứng tỏ có sự truyền xung bệnh lý qua đồi thị.
+ Khi có nhiều ổ thương tổn ở não: loạn nhịp lan tỏa bởi kịch phát pic, nhọn, phức bộ sóng có biên độ khác nhau trong thời gian giữa các cơn.